Tại sao ngân hàng nhà nước không bỏ room tín dụng?

Trong điều kiện dịch bệnh đang được không chế trên toàn cầu, vì vậy mà nên kinh tế cần nhiều vốn hơn để phục hồi và tăng trưởng kinh tế sau đại dịch. Nhưng bên cạnh đó đang có một số ý kiến trái chiều là đề xuất bỏ cấp room tín dụng. Nếu bỏ room tín dụng sẽ tìm ẩn rất nhiều rủi ro hoạt động. Đồng thời nó cũng mang nhiều hệ lụy nợ xấu cho các tổ chức tín dụng nói riêng và những rủi ro bất ổn vĩ mô nói chung. Cùng ducatiny tìm hiểu thêm bài viết dưới đây nhé!

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng

Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng

Do ngân hàng vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế nêu nếu bỏ room tín dụng sẽ tiềm ẩn rủi ro hoạt động, hệ luỵ nợ xấu cho các tổ chức tín dụng nói riêng và rủi ro bất ổn vĩ mô chung.

Mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng đã có văn bản giải trình ý kiến của Đại biểu quốc hội Nguyễn Thị Mai Phương – Đoàn Đại biểu tỉnh Gia Lai tại phiên thảo luận về kinh tế xã hội Kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XV liên quan đến vấn đề bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng.

Cụ thể, đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương có ý kiến rằng nhà nước cần phải có những biện pháp, những chính sách, cơ chế tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước, nhất là trong doanh nghiệp tư nhân được thuận lợi trong việc vay vốn.

Muốn vậy, nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng chiếm khoảng 80% như báo chí đưa tin là một nguồn doanh nghiệp được tiếp cận thuận lợi, dễ dàng. Nếu không tiếp cận kịp thời sẽ có nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, kiệt quệ dẫn đến phải đóng cửa, phá sản.

Theo đó, bà Phương đề nghị NHNN xem xét trong thời gian tới thay việc quản lý bằng biện pháp hành chính là cấp room tín dụng bằng việc quản lý hệ số an toàn vốn (CAR), vừa đảm bảo an toàn, vừa phù hợp với chuẩn Basel II và thông lệ quốc tế.

Thống đốc chỉ ra từ thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế

Trả lời ý kiến trên, Thống đốc chỉ ra từ thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế. Thị trường vốn, thị trường chứng khoán có vai trò chủ đạo cung cấp vốn trung dài hạn cho nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng chủ yếu cung cấp vốn ngắn hạn.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, do thị trường vốn; thị trường chứng khoán còn chưa phát triển đúng với vai trò. Vị thế của mình, nên việc cân đối vốn cho nền kinh tế (đặc biệt là vốn trung dài hạn). Vẫn dựa nhiều vào vốn ngân hàng, từ đó luôn tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn; rủi ro thanh khoản đối với hệ thống ngân hàng (huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn); kéo theo sức ép và rủi ro.

Hiện nay, tỷ lệ tín dụng trên GDP vẫn của Việt Nam hiện vẫn ở mức khá cao và có xu hướng tăng, quy mô tín dụng đã rất lớn (theo như khuyến cáo của World Bank). Do đó tăng trưởng tín dụng quá cao; không chỉ tiềm ẩn rủi ro bất ổn vĩ mô chung cho nền kinh tế. Mà còn gia tăng rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng (TCTD); ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống ngân hàng.

Đây cũng là bài học kinh nghiệm cho ngành ngân hàng sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng. Dẫn đến những hệ lụy phải xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các TCTD.

Phân bổ chỉ tiêu room tín dụng

Phân bổ chỉ tiêu room tín dụng
Phân bổ chỉ tiêu room tín dụng

Việc thông báo room tín dụng đầu năm và điều chỉnh khi cần thiết. Đối với các TCTD được thực hiện theo nguyên tắc TCTD có tình hình hoạt động an toàn; lành mạnh hơn sẽ được NHNN xem xét phân bổ chỉ tiêu room tín dụng cao hơn.

Tuy nhiên, không phải là không có cách làm khác đơn giản hơn. Chẳng hạn, NHNN chỉ cần điều hành hoặc định hướng tín dụng thông qua việc kiểm soát hệ số CAR. Nếu NHNN muốn hạn chế cho vay vào lĩnh vực bất động sản thì hoàn toàn có thể tăng hệ số rủi ro lên cao hơn rất nhiều con số hiện nay là 200%, các khoản cho vay mua nhà hay cho vay tiêu dùng cũng vậy. Bởi lẽ, tất cả các hệ số này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến hệ số an toàn vốn của các ngân hàng.

Qua đó, thúc đẩy TCTD nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng cường chất lượng; hiệu quả hoạt động và các chỉ số an toàn hoạt động.

Bên cạnh đó, NHNN cũng xem xét một số yếu tố như mặt bằng lãi suất huy động, cho vay; thực hiện chuẩn mức Basel II. Đảm bảo tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay.